Ngày 19/12/2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức toạ đàm “Mô hình đào tạo giáo viên: Đổi mới và chất lượng” tại Trường ĐHSP Hà Nội 2. Tham dự buổi tọa đàm có lãnh đạo Vụ GDĐH, đại diện các trường đại học có đào tạo giáo viên phổ thông, giáo viên dạy nghề trên toàn quốc. Buổi tọa đàm đã trao đổi, chia sẻ, đóng góp những quan điểm khoa học có giá trị thực tiễn trong công tác đào tạo giáo viên; chú trọng xây dựng mô hình, chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra các ngành sư phạm trong tình hình mới.

Một số hình ảnh tại buổi tọa đàm


Lãnh đạo Vụ GDĐH phát biểu đề dẫn buổi toạn đàm


GS.TS. NGƯT Thái Văn Thành – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh báo cáo tham luận “Áp dụng mô hình CDIO về đào tạo giáo viên tại Trường Đại học Vinh” 



Các ý kiến trao đổi, chia sẻ, đóng góp tại buổi tọa đàm.

Tóm tắt báo cáo của GS.TS. NGƯT Thái Văn Thành – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh với tham luận “Áp dụng mô hình CDIO về đào tạo giáo viên tại Trường Đại học Vinh” tại buổi tọa đàm “Mô hình đào tạo giáo viên: Đổi mới và chất lượng” do Bộ GD&ĐT chủ trì

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾP CẬN CDIO

      CDIO =Conceive – Design – Implement – Operate (Hình thành ý tưởng – Thiết kế - Triển khai – Vận hành) là một mô hình đổi mới giáo dục xuất phát từ Viện công nghệ Massachussetts Hoa Kỳ (MIT). CDIO có thể đáp ứng nhu cầu mới của các doanh nghiệp và các bên liên quan trong việc nâng cao khả năng của sinh viên tiếp thu các kiến thức cơ bản, đồng thời đẩy mạnh việc học các kỹ năng cá nhân và giao tiếp, xây dựng quy trình và hệ thống, chế tạo sản phẩm. Quy trình đào tạo CDIO bắt đầu từ việc xác định mục tiêu đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra và căn cứ vào chuẩn đầu ra (outcome-based) để thiết kế chương trình. Quy trình này được xây dựng đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn chặt chẽ với sự tham gia của các bên liên quan bao gồm nhà tuyển dụng, cựu sinh viên, sinh viên, giảng viên, các nhà khoa học, v.v.

CHUẨN ĐẦU RA CTĐT CDIO BAO GỒM 4 KHỐI KIẾN THƯC, KỸ NĂNG

(1) Kiến thức chuyên ngành và năng lực lập luận (Disciplinary knowledge and reasoning);

(2) Kỹ năng, phẩm chất cá nhân và nghề nghiệp (Personal and professional skills and attributes);

(3) Kỹ năng liên nhân bao gồm làm việc nhóm và giao tiếp (interpersonal skills: teamwork and communication);

(4) Kỹ năng hình thành ý tưởng, thiết kế, triển khai và vận hành trong bối cảnh thực tiễn doanh nghiệp, môi trường và xã hội (CDIO systems in the enterprise, societal and environmental context).

      Các kiến thức và kỹ năng này được tích hợp trong chương trình đào tạo và phân nhiệm cụ thể cho từng môn học dựa trên ma trận chương trình.

      Mỗi môn học đều góp phần vào việc đạt chuẩn đầu ra của toàn bộ chương trình đào tạo ở các mức độ khác nhau. Từng giảng viên phải tuân thủ các chuẩn mực của chương trình về nội dung và mức độ giảng dạy tương ứng I - T- U (Introduce: giới thiệu, Teach: dạy, Utilize: vận dụng) để tránh dạy trùng lặp hoặc bỏ sót kiến thức, kỹ năng đã được xác định.

      CDIO xuất phát từ ngành kỹ thuật hàng không và hiện nay việc áp dụng mô hình này vẫn phổ biến nhất đối với các ngành kỹ thuật. Các nghiên cứu gần đây cho thấy mô hình đào tạo này đã thể hiện tính phù hợp và ưu việt của nó đối với việc đào tạo kỹ sư trong kỷ nguyên cách mạng 4.0. Sinh viên được đào tạo theo mô hình CDIO có thể bắt tay ngay vào thế giới việc làm mà gần như không phải đào tạo lại. CDIO có thể áp dụng để xây dựng quy trình chuẩn cho nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau ngoài ngành đào tạo kỹ sư, vì nó đảm bảo khung kiến thức và kỹ năng, chẳng hạn áp dụng cho khối ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, sư phạm….

      Nhiều trường ĐH lớn trên thế giới áp dụng CDIO cho các ngành phi kỹ thuật: Trường ĐH Bách khoa Singapore, ĐH Khoa học ứng dụng Phần Lan .ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, v.v.

Người khởi xướng CDIO, Giáo sư Edward Crawley của MIT cũng lưu ý rằng CDIO có thể áp dụng cho các ngành phi kỹ thuật dựa trên 12 tiêu chuẩn CDIO như sau:

      - Xác định bối cảnh nghề nghiệp làm xuất phát điểm cho việc thiết kế chương trình (Tiêu chuẩn CDIO 1).

      - Khảo sát ý kiến các bên liên quan để xác định yêu cầu chuẩn đầu ra cho sinh viên tốt nghiệp (Tiêu chuẩn CDIO 2).

      - Điều chỉnh các thành tố CDIO về chương trình và phương pháp sư phạm phù hợp với yêu cầu của ngành đào tạo (Các tiêu chuẩn CDIO 3-11).

      - Áp dụng các nguyên lý phát triển chương trình và kiểm định chất lượng theo CDIO (Tiêu chuẩn CDIO 12).

      - Chương trình đào tạo CDIO ngành sư phạm của ĐH Vinh: 125 TC/36 học phần, được cấu trúc tích hợp kiến thức và kỹ năng xác định ở chuẩn đầu ra của mỗi chương trình. Từ năm thứ nhất sinh viên học Nhập môn ngành sư phạm đã được làm quen với thực tiễn nghề nghiệp, làm việc nhóm để xây dựng đồ án học tập. Trong quá trình học tập sinh viên thường xuyên thực hiện các đồ án, trong đó có các đồ án liên môn. Việc tích hợp các chủ đề học tập sẽ giúp sinh viên làm quen dần với chương trình giáo dục phổ thông mới.

      - Về kiểm tra đánh giá: Chú trọng đánh giá quá trình, Kiểm tra đánh giá CDIO: 10% chuyên cần + 20% làm việc nhóm, bài tập cá nhân…. + 20% giữa kỳ + 50% cuối kỳ.

Một số đánh giá bước đầu về CTĐT CDIO ngành sư phạm tại Trường Đại học Vinh

      CĐR CTĐT tiếp cận CDIO cho các ngành sư phạm được xây dựng rất khoa học và có tính thực tiễn cao vì chuẩn này dựa trên kết quả khảo sát của các bên liên quan bao gồm các chuyên gia, giáo viên, cựu sinh viên, các nhà quản lý trường phổ thông, sở và phòng giáo dục, giảng viên sư phạm và sinh viên. Dựa trên chuẩn đầu ra đã được tham vấn các bên liên quan, Nhà trường đã xây dựng chương trình đào tạo tích hợp bao gồm các môn học và khối kiến thức đảm bảo sinh viên đạt được chuẩn đầu ra sau khi hoàn thành chương trình đào tạo. Song song với việc trang bị kiến thức chuyên ngành, sinh viên được hình thành các phẩm chất cá nhân và các kỹ năng liên nhân như giao tiếp, làm việc nhóm, thuyết phục, trình bày, tư duy phản biện, v.v. rất cần thiết cho người giáo viên thời đại cách mạng 4.0. CTĐT CDIO ngành sư phạm đã bao phủ đầy đủ các kiến thức và kỹ năng “cứng” cũng như kỹ năng “mềm” mà chương trình trước đây còn thiếu.

      CTĐT CDIO chú trọng dạy học theo đồ án (Project-based learning), có ít nhất 2 đồ án tổng thể có đầy đủ các thành tố C-D-I-O: Năm đầu (đơn giản) & Năm cuối (mức độ giáo viên mới ra trường). Tương tác GV-SV thường xuyên, tăng sự gắn bó thầy –trò, sinh viên chủ động hơn trong việc tự học, làm việc nhóm, tìm kiếm tài liệu, nội dung học tập; có ý thức tốt hơn; ….Khả năng trình bày báo cáo bằng văn bản và trình diễn của sinh viên tốt hơn.

KẾT LUẬN

      - Đào tạo giáo viên trong trường đại học đa ngành để tận dụng thế mạnh về cở sở vật chất, nhân lực của các ngành đào tạo ngoài sư phạm.

      - Sinh viên được chuyển đổi ngành, nghề linh hoạt trong quá trình đào tạo để thích ứng với thị trường lao động.

      - Sinh viên sư phạm trong môi trường đa ngành có tư duy năng động và thích ứng nhanh với xã hội.

      - CDIO = Đào tạo tích hợp, tiếp cận năng lực.


Tin, ảnh: Lê Khắc Phong – Phòng Đào tạo